ẤM TRÀ - Nghề chơi cũng lắm công phu (Bài này được post từ nguồn tài liệu chính thức được cung cấp từ tác giả Nguyễn Duy Chính, xin được cảm ơn anh Nguyễn Anh Hào đã cung cấp bài)
Một nhà nho Việt Nam cuối thế kỷ XIX ở Hà Nội
Hình 1: Gánh trà rong ở Quảng Đông Hình 2: Ấm tử sa Hình 3: Ấm đoạn nê Hình 4: Ấm chu nê Hình 5: Ấm Nghi Hưng từ thuyền buôn bị đắm Về màu gan gà, hiện nay có hai giải thích xem ra đều có lý. Một lối
giải thích chính thức [theo nghĩa trong từ điển] cho rằng màu gan gà “tả
màu vàng hoặc xám vàng, giống như màu gan của gà (thường nói về đất
sét)”. Đây là định nghĩa trong Từ Điển Tiếng Việt do Viện Ngôn Ngữ Học
[Viện Khoa Học Xã Hội Việt Nam] (Hà Nội: Trung Tâm Từ Điển Ngôn Ngữ,
1992) tr. 373. Định nghĩa này còn có thêm “đất gan gà, vách đá gan gà”
làm thí dụ. Đây hẳn là màu miếng gan gà đã luộc chín cắt ra bày lên đĩa. Một số từ điển tiếng Việt khác chúng tôi tra cứu lại không rõ, nói đúng ra là không định nghĩa gì cả. Việt Nam Tự Điển của Hội Khai Trí Tiến Đức (Hà Nội: Trung Bắc Tân Văn, 1931) tr. 202 viết “Gan gà: Màu như màu gan gà: Đất gan gà”. Đại Từ Điển Tiếng Việt [Nguyễn Như Ý chủ biên] do Trung Tâm Ngôn Ngữ và Văn Hoá Việt Nam [Bộ Giáo Dục và Đào Tạo] (Hà Nội: Văn Hoá-Thông Tin, 1999) tr. 705 viết “gan gà: Màu của đất giống như màu gan của con gà: đất gan gà”.
Tuy nhiên, ngoài màu vàng ở trên, một lối giải thích khác không hẳn
là vô lý. Màu gan gà là màu nâu sậm, ẩn màu tím của lá gan con gà còn
tươi khi mới mổ. Màu này cũng chính là màu tía theo nguyên thuỷ chữ Hán
trong “tử sa”. Nếu như thế, ấm gan gà là ấm tử sa màu nâu sậm là
màu khá thông dụng cho các loại ấm đất, chỉ sau loại màu đỏ gạch. Cụ thể
là trong số những ấm đất mà người ta tìm thấy trong các thuyền buôn bị
đắm thì hầu như chỉ có hai loại ấm màu đỏ [chu sa] và ấm màu nâu [tử
sa], không thấy ấm màu vàng [đoạn nê] là loại mà ngay ở Trung Hoa cũng
ít thấy. Nếu xem tận mắt lá gan gà chưa luộc chín thì màu sắc quả rất
tương đồng với những ấm tử sa loại tốt. Do đó ấm gan gà mà cổ nhân mua
được chính là ấm tử sa màu nâu sậm, không phải ấm màu vàng. Đây là một
giả thiết được bằng hữu góp ý, người viết chỉ đưa ra cho rộng đường dư
luận.
Hình 7: Ấm hiệu Thế Đức Đường Nói chung, ba tên này là ba hiệu ấm thông dụng nhất nhập cảng vào
nước ta hồi thế kỷ XVIII, XIX. Ngày xưa chẳng mấy ai đủ tiền để mà so
sánh hơn kém nên hai câu: “Thứ nhất Thế Đức gan gà, Thứ nhì Lưu Bội, thứ
ba Mạnh Thần” được người nọ truyền cho người kia như một câu “thần chú”
để khi mua khỏi bị lầm. Thời xưa, việc có được một chiếc ấm là đại sự,
không phải như chúng ta hôm nay, muốn mua bao nhiêu cũng có.
Lưu Bội: không rõ năm sinh, năm mất. Một số chuyên gia đoán rằng ông sống vào thời Thanh sơ, cũng có người cho rằng ông thuộc đời Minh mạt hay sớm hơn nữa, đời Gia Tĩnh.
Hình 8: Ấm hiệu Lưu Bội
Lưu Bội nổi tiếng về các loại ấm chu nê nhỏ, hiện nay còn lại không nhiều. Dương Tiện Sa Hồ Đồ Khảo [陽羨砂壺圖考] liệt kê 5 chiếc: - Chiếc thứ nhất do Đường Thiên Như sưu tầm được, thuộc loại chu nê
nhỏ, dưới trôn ấm có dấu viết năm chữ “Dĩ Tri Cấp Cổ Công” [以知汲古功] và ký
tên “Lưu Bội Chế” [留珮製], chữ chìm. Nếu đúng như thế, ấm do chính tay Lưu Bội nặn ngày nay không còn nhiều. Những ấm có đóng dấu Lưu Bội tuy cũ thật nhưng đều thuộc dạng ấm thương mại được sản xuất hàng loạt. Thỉnh thoảng trên internet cũng thấy một hai chiếc ấm Lưu Bội hay Mạnh Thần để bán và thường được mua với giá từ 100 đến 400 dollars, tuỳ loại, tuỳ kiểu, xem ra cũng không phải là đắt lắm, nếu có dư dật và kiên nhẫn một chút có thể mua được.
Về Mạnh Thần, theo chính những hàng chữ viết thì ông sống vào đời Minh Thiên Khải (1621-1627) qua tới đời Sùng Trinh (1628-1644). Ông thường nặn loại ấm nhỏ tròn, khắc chữ bằng dao tre, trong nắp có hai chữ “Vĩnh Lâm” bằng chữ triện(6). Ấm Mạnh Thần chế tạo đa số là ấm chu nê và tử sa, chỉ có rất ít ấm bằng đoạn nê. Các loại ấm cỡ trung và đại cũng hiếm. Trong các ấm cổ, dường như ấm Mạnh Thần được người ta “nhái” nhiều hơn cả và cũng là loại ấm nhỏ thông dụng nhất. Tuy nhiên, ấm do chính tay ông làm không dễ kiếm và đều ở trong tay các nhà chuyên môn hay viện bảo tàng. Các loại ấm thương mại Thế Đức, Lưu Bội, Mạnh Thần xuất hiện trong sách phần lớn là loại “thuỷ bình”(7), tay cầm, miệng ấm và vòi ấm ngang nhau [còn gọi là “tam sơn tề”]. Đặc tính này cũng trở thành một tiêu chuẩn để chọn ấm [bằng cách lật úp trên một mặt phẳng, hoặc thả vào nước xem có cân không]. Ấm có ba điểm ngang nhau sẽ không bị tràn nước ra khỏi vòi khi rót đầy. Tuy nhiên, theo cách thức pha trà ngày nay, ấm luôn luôn được để trong một cái tô lớn [trà thuyền] nên việc nước trào ra hay không cũng không còn là vấn đề. Việc quai ấm phải ngang với miệng ấm cũng không còn là một trọng điểm vì thực ra quai ấm không liên quan đến mực nước mà để cho thuận tiện, quai ấm nhiều khi được chế tạo cao hơn miệng bình để khi rót không phải nâng lên, dễ cầm hơn có quai ngang với thân ấm.
Hình 9: Ấm Mạnh Thần
Việc lật úp ấm lên mặt bàn cũng chỉ áp dụng được cho những loại ấm đơn giản, kiểu cổ. Ngày xưa ấm đem sang bán ở nước ta thường là loại thương mại, được chế tạo với số lượng lớn, ít khi được điểm xuyết bằng tay, cái tròn cái méo không đều nên phương thức giản dị để chọn một cái ấm đẹp và tốt khi đến hiệu buôn là cần thiết. Những cách thức mà nhà văn Nguyễn Tuân nhắc đến nên được hiểu và áp dụng trong khung cảnh xã hội Việt Nam cách đây 100 năm, thời đại mà dân trí thấp, nghèo nàn, buôn bán đều là tiểu thương, ngày nay những tiêu chuẩn đó không có giá trị bao nhiêu.
Hình 10: Một trà quán ở Nam Kinh khoảng 1930
THƯỞNG TRÀ
Trong lịch sử, kỹ nghệ làm ấm phát triển rất giới hạn, không phát triển độc lập mà có những tương ứng nhất định với kỹ nghệ trồng và chế biến trà. Khi việc xuất cảng trà trở thành quan trọng và trà Tàu được bán ra ngoài với số lượng lớn, việc bán ấm, nặn ấm cũng phát triển theo. Khi vào những quốc gia Đông Nam Á, chỉ thành phần Hoa kiều và một số nhỏ giới nho sĩ, trưởng giả địa phương mới mua ấm đất để dùng. Ở nước ta, số ấm cũ còn lại rất ít, cũng không đẹp như những ấm cổ ở Hoa lục hay Đài Loan.
Ấm dùng để pha trà nên nếu quá “đẹp” thì thường không tiện dụng. Những loại ấm cầu kỳ ngày xưa không ai mua vì cổ nhân chưa đạt đến mức mua ấm để trưng, bỏ tiền mua về mà không dùng đến. Cho nên ấm cũ nghĩa là đã có người dùng pha trà nhiều lần, lưu truyền trong gia đình như một món đồ gia dụng. Không đạt được những tiêu chuẩn chính yếu của một ấm đất pha trà chắc chắn không ai giữ đời này qua đời khác làm gì. Cũng vì thế, hiếm có ấm nào tốt mà lại còn nguyên vẹn, không hư hao theo thời gian. Miệng ấm, nắp ấm, vòi ấm, tay cầm khó có thể còn hoàn hảo như mới mà sứt mẻ ít nhiều lại không có phương tiện để hàn chắp, vỡ rồi đành chịu(8). Trong sách còn hình ảnh những ấm cổ bị nứt vỡ phải khoan rồi dùng nhiều đinh đồng kiềm lại đủ biết việc tái tạo rất nhiêu khê.
Ngày xưa, trà cũng đắt, là một “xa xỉ phẩm”, ấm của người phong lưu thường nhỏ bằng nắm tay trẻ con [độc ẩm] hay hơi lớn hơn một chút [song ẩm] rót đầy vài chiếc chén bé bằng hạt mít. Nói là thế, chỉ khi nào có khách quí chủ nhân mới đem trà Tàu ra đãi, còn bình thường trong gia đình dùng ấm lớn pha trà [khô hay trà tươi, lá vối] dùng với chén lớn trong việc giải khát hay tráng miệng.
Theo giá cả ngày xưa, một cân trà [Tàu] giá lên đến một tháng lương, nhiều loại lên đến cả năm lương. Đó là tính theo tiền Âu Châu, ở các nước Á Châu chắc còn hơn. Đắt như thế nên giới trung lưu thường không dám mơ đến chuyện uống trà Tàu(9). Ngược lại, thời đại hôm nay kinh tế thị trường mang tính toàn cầu, việc uống trà không còn là một thưởng ngoạn dành cho thiểu số, ấm đất cũng được làm lớn hơn, chén cũng to hơn cho tương ứng với sinh hoạt.
Phú quí sinh lễ nghĩa, việc uống trà cũng thành cầu kỳ, nhiều loại trà cụ và nghi thức cũng phức tạp hơn mặc dầu ngay cả tại Trung Hoa và Đài Loan, cách thức uống trà, chơi ấm vẫn chưa thống nhất. Một số tác giả đã kết tập các cách chọn trà, chọn ấm, pha chế và nghi thức cho thành bài bản, nhiều địa phương còn có những buổi tập huấn hay chỉ dẫn cho những hội viên của các câu lạc bộ thưởng ngoạn(10).
CON DẤU VÀ CHỮ VIẾT
Khi nghiên cứu về con dấu đóng trên ấm, những người chơi đồ cổ có cả một công trình để phân biệt thực hư vì kiểu ấm luôn luôn liên quan đến thời đại và sáng tạo của các danh thủ. Con dấu và cái hồn [spirit] của chiếc ấm cho biết tác phẩm đó được xuất hiện thời kỳ nào và là một dấu hiệu xác định giá trị của chiếc ấm đó. Thế nhưng con dấu cũng chính là chỗ mà kẻ gian hay làm giả nhất. Nhiều chiếc ấm giả cổ hay giả danh [làm giả của các danh thủ] làm rất khéo, để bên cạnh cũng khó ai phân biệt được.
Cứ theo sách vở, việc khắc hay đề thơ chỉ mới được xuất hiện khá trễ khi việc nặn ấm đã trở thành một nghệ thuật, không còn ý nghĩa nguyên thuỷ là hoàn thành một dụng cụ uống trà. Ấm đất cũng giống như văn phòng tứ bảo [bút, nghiên, giấy, mực] nay là một phần trong sinh hoạt của văn nhân. Vì thế, những câu thơ, chữ viết khắc trên ấm nói lên ước vọng và tâm tư của người chủ. Một đôi câu thơ hay dễ động lòng người hơn là chỉ những lời chúc tụng sáo rỗng. Chiếc ấm mới tôi vừa mua có viết hai câu thơ rất hay của Nguỵ Dã: Tẩy nghiễn ngư thôn mặc, 洗硯魚吞墨 Rửa nghiên cá nuốt mực
Tuy chỉ tổng cộng 10 chữ, chúng ta cũng hình dung được nhà nho đang ngồi viết, làm thơ bên cạnh một hồ nước với những con cá lượn và một tiểu đồng quạt nước pha trà, chung quanh là những con hạc lững thững rất nhàn tản, một khung cảnh vừa thanh bình, vừa phong lưu.
Những chiếc ấm của Đài Loan nặn bằng tay gần đây thường có tên người làm, năm chế tạo nên chúng ta dễ biết được làm vào thời gian nào, chứng tỏ đó là ấm thật, không nguỵ tạo, giả cổ. Loại đề chữ như thế đã làm phong cách sưu tầm đi vào một bước mới, không lệ thuộc vào con dấu [rất dễ làm giả]. Việc ghi lại niên đại và tên của nghệ nhân cũng còn là một kiêu hãnh ngầm chứng tỏ sự lương thiện và thành tín, không nhập nhằng, tuy không công khai nói ra nhưng là một xác quyết và bảo đảm về phẩm chất của của ấm Đài Loan. Đôi khi, một chiếc ấm được hình thành bởi ba tác giả khác nhau, một người nặn ấm, một người khắc ấm và một người viết chữ. Nếu cả ba người đều nổi tiếng thì giá trị chiếc ấm tăng lên rất nhiều.
Những chiếc ấm mới còn được dùng như một tấm vải để nghệ nhân gửi gấm một bức tranh, một bài thơ. Có một chiếc ấm tốt, nét chữ khắc lại tinh xảo, câu thơ nhiều ý nghĩa cũng là một cái thú không phải ai cũng biết thưởng thức. Không hiếm người coi bản điêu khắc là tiêu chuẩn quan trọng khi chọn ấm. Chu Quế Trân, một danh thủ ấm Nghi Hưng đã khắc bài thơ thất ngôn luật thi của Phùng Kỳ Dung(12) [馮其庸] trên ấm Mạn Sinh đề lương [ấm có quai vòng lên trên] như sau:
世事從來假復眞,
Dịch âm
Người học trò nhỏ này cũng là kẻ đa tình
ẤM GIẢ CỔ
Ấm đất là hàng đưa từ Trung Quốc sang, không phải là sản phẩm của người Việt. Trước đây việc uống trà bằng ấm nhỏ được coi như một biểu tượng thanh cao, trong giới tương đối có học và dư dật. Qua thời gian và nhiều năm binh lửa, ấm trà cũ ở nước ta không còn nhiều, những ấm cũ nay còn thấy cũng không phải là ấm quí do các danh thủ nặn mà chỉ thuộc mặt hàng thương mại, giá trị trung bình.
Cũng như các sưu tập thông dụng của người Trung Hoa như thư pháp, hội
hoạ, nghiên cổ, đồng cổ ..., thú sưu tầm ấm trà nếu có cũng chỉ mới
được du nhập vào Việt Nam trong thời gian gần đây. Xã hội nước ta vì
chiến tranh, vì sinh hoạt nên ít có những món gia bảo truyền đời này
sang đời khác như ở bên Tầu. Phần lớn chúng ta uống trà bằng bình tích
giữ trong ấm ủ lót bông, trà cũng là loại trà thường nên khó có gia đình
nào giữ được ấm quí. Thành thử, những người chơi ấm hiện nay đều nhắm
vào ấm đất sản xuất ở Nghi Hưng(13).
Hình 11: Trà Cụ Văn Vật Quán [Hongkong]
Việc làm quen với ấm đất do đó chỉ còn cách là mua một số sách viết về ấm Nghi Hưng để nhìn hình cho có một khái niệm. Ấm mang nhãn Mạnh Thần thì khá nhiều nhưng ấm đóng dấu Lưu Bội hay Thế Đức [Đường] thì rất ít, cũng không phải là loại ấm hảo hạng. Trong những sách vở và biên khảo về ấm đất, tôi chưa thấy có những chi tiết cụ thể về hai thương hiệu này nên không nghĩ là đây là những món hàng được các đại gia Trung Hoa săn đuổi.
Đã có lúc, ấm Nghi Hưng trở thành một cơn sốt. Đó là khi một số người tương đối khá giả trong cộng đồng người Trung Hoa ở bên ngoài (Đài Loan, Singapore, Thái Lan, Malaysia, Hoa Kỳ ...) bị mê hoặc bằng những truyện thần kỳ. Khoảng đầu thập niên 80 của thế kỷ trước, sau một số đợt triển lãm và giới thiệu về ấm Nghi Hưng, nhiều đại gia đi lùng ấm cổ. Có người đã bán cả nhà để mua cho bằng được một chiếc ấm quí. Bảo tàng ấm đất đầu tiên ở Hongkong trình bày bộ sưu tập do tiến sĩ La Quế Tường [Dr. K.S. Lo] cống hiến, được biết dưới cái tên Trà Cụ Văn Vật Quán [Flagstaff House Museum of Tea Ware, vốn là trạch đệ của viên tư lệnh lực lượng Anh tại Hongkong, do đó có tên là Flagstaff House]. Có thể nói, chính viện bảo tàng này đã đưa đến hứng thú cho thanh niên Đài Loan và Trung Hoa, biến thú uống trà thành một phong cách thay thế các ẩm liệu Tây phương đang chiếm lĩnh thị trường.
Người ta cũng tổ chức những cuộc thi tài về nặn ấm. Lần đầu tiên thực hiện năm 1992 có 195 món hàng tham dự và đưa ra những sáng tạo làm thay đổi hoàn toàn kỹ nghệ tử sa. Việc nặn ấm không còn hạn chế trong các thợ đồ gốm mà trở thành một nghệ thuật phải huấn luyện theo những trình tự nhất định, sau đó được cấp bằng và danh vị như những ngành nghề nổi tiếng khác.
Cũng trong giai đoạn mà thiên hạ đua nhau lùng kiếm ấm tốt, một số nghệ nhân chính gốc ở Nghi Hưng [Hoa lục] nhận ra rằng nếu họ bỏ công làm một số ấm thật đẹp thì có thể chuyển ra ngoài một cách bán chính thức, được giá hơn đồng lương chết đói mà xí nghiệp [quốc doanh] trả cho họ. Thế là chẳng bao lâu dậy lên một phong trào tuồn những ấm đẹp theo ngả Hongkong để đi ra những cộng đồng người Hoa ở khắp nơi.
Theo thống kê, những nhà sưu tập Đài Loan đã thủ đắc được nhiều ấm quí với giá tương đối hời, tương tự như mươi năm trước đây một số người Việt ở bên ngoài đã tìm mua được nhiều đồ sứ, tranh quí trong nước với giá rất “phải chăng”, tạo thành một đợt lùng mua cổ ngoạn.
Nghi thức uống trà cũng thành cầu kỳ với nhiều định lệ mà trước đây chưa có. Vô số trà thất được thành lập để làm chỗ tụ hội, trao đổi kiến thức và dĩ nhiên không thiếu việc bàn luận kinh doanh. Chính cơn sốt đó đẩy kỹ nghệ làm ấm và buôn ấm lên gấp bội. Theo tiến sĩ La Quế Tường, khi ông đến viếng thăm Nghi Hưng năm 1979, cả thành phố này chỉ có chừng 400 đến 600 thợ làm ấm. Vậy mà chỉ mười năm sau, số thợ ở đây lên đến 10,000 người và đến nay chắc còn hơn nhiều lần nữa. Giá ấm cũng từ vài chục cents nay lên đến hàng chục, hàng trăm dollars.
Hiện nay trên thị trường có bán rất nhiều ấm giả cổ, hình dáng, con dấu ... được chế tạo rất tinh vi, trông như thật. Tuy nhiên, theo một số chuyên gia về ấm, việc tìm được một chiếc ấm cổ thật thiên nan vạn nan. Những chiếc ấm do các danh sư nặn nay đều nằm trong viện bảo tàng và là sở hữu của một số người chơi đồ cổ kỳ cựu. Dù với giá rất cao, chiếc ấm mà chúng ta mua được đa phần là đồ giả, trừ khi có rất nhiều tiền còn người thường chẳng nên tìm kiếm mất công.(14)
Những nghệ danh Cung Xuân, Thời Đại Bân, Trần Minh Viễn, Huệ Mạnh Thần ... được khai quật và khá nhiều ấm [dĩ nhiên không phải đồ thật] mang tên những hảo thủ này. Hàng nhái rất khéo, khéo đến nỗi chính những người sành sỏi cũng nhầm, để hai chiếc một giả, một thật vẫn không phân biệt được. Ấm được làm cũ đi bằng cách ngâm trong nước trà, phơi nắng, vứt lăn lóc ngoài xó vườn, góc sân, hay chôn xuống đất, có khi còn gõ cho mẻ một miếng để cho có vẻ thật. Đó là chưa nói đến những tiểu xảo bịp bợm khác rút ngắn thời gian nhanh hơn như bôi dầu nhớt, bồ hóng .... cho có vẻ cũ kỹ.
Để gia tăng độ cổ kính, các chuyên gia cũng có nhiều cách tương đối “vương đạo” hơn như dùng máy tôi, thổi lên ấm hơi nước trà li ti trong một thời gian để làm cao hay chuyển ấm từ một nơi thật nóng nhúng vào nước trà rồi chuyển sang một nơi thật lạnh để ấm hút tinh trà vào đất, gia tốc độ thẩm hương giống như một chiếc ấm dùng đã lâu. Những chiếc ấm dùng trong thử thách này thường là ấm tốt, việc lão hoá chỉ là một thủ thuật phụ để tăng trị giá thực của chiếc ấm chứ không nhằm mục đích đánh lừa người mua.
Tuy nhiên, dù gì chăng nữa, ấm tốt đến đâu cũng có giới hạn của nó. Những sự tích ly kỳ về ấm, về trà chỉ nên coi là dật sự đem đến cho cái thú này một màu sắc văn hoá hoang đường hơn là sự thật. Thế nhưng những dật sự đó đã biến một ngành thủ công nghệ tầm thường thành một động lực thu hút người mua, đóng góp khá nhiều vào kinh tế khiến Trung Hoa vươn được cánh tay ra khắp năm châu rồi đến nay thành một con bạch tuộc trăm vòi, ở đâu cũng có.
ẤM NGHI HƯNG
Dưới thời Dân Quốc khi thế chiến thứ II bùng nổ, ấm Nghi Hưng đã ngưng sản xuất cho tới sau khi Mao Trạch Đông chiếm được Hoa lục. Tuy kỹ nghệ nặn ấm được phục hồi [1953] nhưng thời gian đầu do các hợp tác xã quản lý và hàng chỉ đóng dấu “Trung Quốc Nghi Hưng” mà không đề tên người nặn, được sản xuất theo qui mô lớn cho đại chúng. Theo thời gian và nhu cầu tiêu thụ, càng ngày hàng Nghi Hưng càng đa dạng cả phẩm lẫn lượng.
Từ khi hàng Trung Quốc tràn ngập thị trường thế giới, ấm Nghi Hưng được tung ra rất nhiều, đâu đâu cũng thấy bán với giá rẻ, có khi hàng lố. Ấm cũng thường bán nguyên cả bộ [bao gồm ấm trà, ấm chuyên, chén và đĩa...] đặt trong hộp gỗ, lót vải mềm trông rất mỹ thuật nhưng phẩm chất chỉ từ trung bình đến kém, ít khi có bộ nào đẹp. Theo những nhà nghiên cứu, hiện nay đất chính gốc Nghi Hưng không còn nhiều, chỉ là đất lấy từ các nơi khác, có khi pha trộn hoá chất. Duy nhất còn có đất tử sa để làm ấm là công ty nổi tiếng Nghi Hưng Đệ Nhất Xưởng vì họ làm chủ một mỏ đất vẫn còn đang khai thác tại đây(15). Cũng nên nói rõ, tử sa làm ấm không phải là đất sét như những loại đồ sứ thường mà là đá được nghiền nát, qua một quá trình tinh luyện dài. Kỹ thuật ngày xưa chưa cao, chưa dùng máy móc nên đá đào về phải đập nhỏ, nghiền bằng xe lăn do trâu kéo, giã bằng tay rồi sàng lọc qua nhiều giai đoạn cho đến khi có thể dùng để nặn ấm(16). Thành thử ấm cũ [người ta gọi là nguyên khoáng] không thuần sắc, hạt thường lớn vì chu trình chế tạo theo lối thủ công, chỉ ấm ngày nay dùng máy nghiền nên mới mịn mặt. Tuy nhiên những ấm đất nổi hạt to, có lẫn những mảnh đá li ti [khác màu] thường giá lại cao vì là đồ đất cũ, dùng nguyên liệu biến chế từ ngày xưa nay còn lại, khác với loại ấm làm bằng đất mới, nhẵn và bóng. Ấm tử sa sau khi nung rồi rất cứng có thể chịu được một lực ép thật cao, gõ lên thành tiếng kêu thanh và cao như tiếng khánh. Bỏ ra ngoài yếu tố thời gian của những món đồ cổ, về kỹ thuật cũng như mỹ thuật, ấm mới tốt và đẹp hơn [nếu chúng ta chọn loại hàng có phẩm chất cao] mà giá cả lại rẻ hơn nhiều.
ẤM ĐÀI LOAN
Trên thị trường hiện nay, có thể nói rất khó mua được một chiếc ấm từ chính tay một nghệ sư nặn, mặc dù nhiều nơi còn cung cấp thêm cả hình người thợ cầm chiếc ấm mình đã mua làm chứng thư bảo đảm. Những chiếc ấm từ Hoa lục tuy có năm ba con dấu riêng nhưng rất ít khi nào có những chữ viết tay của tác giả và thường không ghi niên đại hay thời điểm làm ấm, bỏ ngỏ một chi tiết quan trọng mà người mua nào cũng muốn biết.
Riêng ấm Đài Loan, những chiếc ấm đắt tiền [không đắt như ấm cổ nhưng trong khoảng từ 100 đến 500 USD] thì đều có những dòng chữ viết tay, ký tên tác giả và nhất là có cả năm làm ấm. Ngày tháng [có khi đề theo dương lịch] giúp chúng ta biết chắc đã sở hữu chiếc ấm đó được bao lâu, khỏi mất công đoán mò [mà đoán mò thường luôn luôn theo chiều hướng có lợi cho mình] để rồi phải bẽ bàng khi thực tế không giống như kỳ vọng. Những người nặn ấm ở Đài Loan không được xếp hạng và chứng nhận của chính quyền như tại Hoa lục [ở đại lục các ngành nghề đều do chính quyền quản lý] nhưng một số cũng tạo được tiếng tăm khá lớn và những ấm mang chữ ký của họ đều được đánh giá cao.
Theo nhiều nguồn tin, ấm Trung Quốc bây giờ không còn dùng đất sét
nguyên thuỷ mà pha chế nhiều thứ để màu sắc thêm tươi đẹp, biết đâu chả
có những kim loại độc hại? Ngược lại, ấm Đài Loan nay được áp dụng nhiều
kỹ thuật mới, được nghiên cứu một cách khoa học, đất sét pha độ dính
nhiều nên có thể tạo được những chiếc ấm cầm nhẹ tênh, thành rất mỏng tỏ
lộ tài điêu luyện của nghệ nhân nên có những cám dỗ mà khó ai diễn tả
được.(17)
KẾT LUẬN
Ấm trà ngày nay đã trở thành một món đồ gia dụng được nhiều người ưa chuộng. Trong tủ những gia đình Việt Nam thường có một vài chiếc ấm Nghi Hưng xen với các loại đồ sứ của chủ nhân. Ở nước ta hiện chưa có một viện bảo tàng chuyên về ấm đất nhưng trên thế giới, nhất là tại những nơi đông người Trung Hoa, thì khá phổ thông. Ngoài Trà Cụ Văn Vật Quán ở Hongkong, Hàng Châu Trà Khoa Quán ở Hàng Châu, Thiên Phúc Trà Bác Quán ở Chương Châu [Trung Quốc], Tĩnh Cương Bác Vật Quán ở Nhật Bản và Bình Lâm Trà Nghiệp Bác Vật Quán ở Đài Loan là bốn viện bảo tàng nổi tiếng trên thế giới.
Song song với sự phát triển của mậu dịch toàn cầu, kỹ nghệ trà và ấm đã trở thành một khu vực kinh tế quan trọng của một số quốc gia vùng Đông Á. Riêng trong kỹ nghệ nặn và sản xuất ấm, chỉ trong mươi năm, nhiều đợt cải tiến về cả hình dáng, màu sắc, chất liệu ... tạo nên những thu hút trước đây chưa từng có. Ấm tốt làm tại Đài Loan hiện nay có hai hãng Tam Hy [三希] và Đào Tác Phường [陶作坊]. Tam Hy chuyên về ấm đất loại cao đẳng còn Đào Tác Phường thì bán nhiều đồ sứ tráng men. Đời Tống, đồ sứ Trung Hoa nổi tiếng với năm loại Nhữ, Quân, Quan, Ca và Định Diêu [汝,鈞,官,哥,定窯] trong đó Nhữ Diêu(18) màu xanh có ẩn màu lam là thượng phẩm mà cổ nhân đã ca tụng bằng hai câu thơ: 雨過天青雲破處
Trong nỗ lực cải tiến để tìm kiếm sự độc đáo, Đào Tác Phường nay đã tái tạo được nhữ diêu [nung ở nhiệt độ 12700C] và sản xuất những bộ đồ trà rất nhã nhưng vì giá thành cao nên chỉ bán ra với số lượng nhỏ. Những bộ ấm này dùng một thời gian có những vết rạn trông càng thêm cổ kính như một bằng chứng đánh dấu giao tình giữa đồ vật với chủ nhân.
Những loại ấm chén theo kiểu quân diêu, quan diêu, ca diêu, có khi pha trộn nhiều hình thức cũng được ưa chuộng trong giới sưu tầm ấm chén. Tuy nhiên, phần đông các trà thủ vẫn thích các loại ấm đất không tráng men kiểu cổ nên các ấm sứ vẫn chỉ chiếm một tỉ lệ nhỏ trong sản xuất.
Hình 12: Ấm và chén nhữ diêu do Đào Tác Phường chế tạo
Ở nước ta, tuy uống trà Tàu đã phổ biến trong giới thượng lưu từ thời Lê, thời Nguyễn nhưng đại đa số quần chúng vẫn uống chè tươi, chè nụ, chè vối ... như trong tiểu thuyết thời tiền chiến. Chỉ từ khi nhà văn Nguyễn Tuân đề cập đến trong một số truyện ngắn, người nước ta mới quan tâm đến ấm trà bằng đất nung. Tuy nhiên, thú vui này không mấy phổ biến nên ngay cả những người chơi đồ cổ khi nhắc đến ấm Nghi Hưng cũng không chính xác.
Gần đây, trong nước đã xuất hiện một số câu lạc bộ uống trà, nâng thú thưởng ngoạn này lên hàng nghệ thuật để tạo một phong cách riêng. Có người còn thậm xưng thành một “văn hoá trà” của người Việt. Người viết chỉ nghe mà chưa được chứng kiến hay tham dự nên không dám lạm bàn.
Tháng 5 - 2010
Chú giải: (5) Những ấm cổ sưu tập tại Thái Lan, Malaysia cũng có các kiểu ấm Lưu Bội, Mạnh Thần có bịt vàng hay bạc theo sở thích của dân địa phương. Trích từ Nghi Hưng Tử Sa Từ Điển (2002), tr. 152 (6) Gần đây, số lượng ấm Mạnh Thần
được tìm thấy khá nhiều, trong đó có một chiếc ấm màu vàng lớn dưới đáy
viết “Đại Minh Thiên Khải Đinh Mão Kinh KhêHuệ Mạnh Thần Chế” nên người ta mới biết ông họ Huệ người đất Kinh Khê. (8) Đồ giả mạo vì thế cũng hay làm
cho sứt mẻ, có khi làm vỡ rồi chắp lại cho ra vẻ cũ để đánh lừa người
mua. Kỹ thuật làm cho hàng cũ đi của người Tàu rất tinh vi và thiên biến
vạn hoá. Xem thêm Hứa Dật Quần, “Nghi Hưng hồ sơ thức nhập môn toả đàm”
[宜興壺初識入門瑣談] phụ bản tạp chí Hồ Nghệ [Teapot] (壺藝) số 11, Đài Loan 2008
và Trì Tông Hiến, chương V “Danh Gia Hồ Quái Trạng Hiện Hình”, Tuyển Hảo
Hồ Phao Hảo Trà, Hữu Nghị, 2005 tr. 107-29 (11) Nguỵ Dã (960-1020) tự Trọng Tiên, hiệu Thảo Đường Cư Sĩ người đất Thiểm Châu đời Bắc Tống. (12) Học giả Trung Hoa hiện đại [1924-], chuyên nghiên cứu về Hồng Lâu Mộng (Hồng Học). (13) Trong các sưu tập của người Việt mang màu sắc dân tộc, tôi thấy khá nhiều bộ “bình vôi” [lime pots], kế đó là đồ sứ Chu Đậu còn các loại đồ sứ khác thì hiếm hơn. (14) Những chiếc ấm cũ có vẻ thật rao bán trên internet thường được đấu với giá khá cao [thường là ấm thời Dân Quốc], người thắng thường phải trả vài ba trăm trở lên, có mua cũng chẳng làm gì. Thỉnh thoảng tôi cũng thấy một hai chiếc ấm có đề “Huệ Mạnh Thần chế” nhưng chắc chắn không phải là do Huệ Mạnh Thần đời Minh làm ra mà là loại ấm thương mại chế theo kiểu Mạnh Thần [cuối đời Thanh hay đời Dân Quốc]. Những ấm Mạnh Thần loại này thường là chỉ vài chục năm thôi nhưng hình dáng và loại đất tử sa tương đối cũ, có trước phong trào nặn ấm gần đây. (15) Số mỏ đá để có thể
làm ấm không nhiều, phần lớn đã cạn kiệt. Mỗi mỏ phải đào sâu vào trong
núi và mỗi lớp đá dùng được chỉ chừng vài mét là cùng. Ấm của Đệ Nhất
Xưởng thường được các danh thủ nặn riêng bán với giá khá cao cho những
nhà sưu tập. (17) Để khỏi lệ thuộc vào nguồn cung cấp từ Hoa lục, các chuyên gia Đài Loan đã nghiên cứu để áp dụng kỹ thuật cao vào việc pha trộn và tìm kiếm nguyên liệu, nhất là phương pháp chế tạo từ Nhật Bản nên hiện nay kỹ thuật làm ấm của Đài Loan được đánh giá là cao hơn của Hoa lục. Một số tỉnh miền Hoa Nam tiếp xúc nhiều với bên ngoài nên cũng phải chiều theo thị hiếu quần chúng nên hiện nay nhiều ấm làm tại khu vực Quảng Châu, Hongkong cũng rất khéo, tương tự như ấm của Đài Loan. (18) Theo truyền thuyết, nhữ diêu chỉ dành riêng cho cung vua đời Tống, và về sau hiếm đến nỗi vua Càn Long đã phải nói là “ít như sao buổi sớm”. Triều Tiên sau này có loại Koryo cũng có màu sắc tương tự. Nguồn: Thư Trà (thutra.com) |
Thông tin >